Hiển thị các bài đăng có nhãn van hoa. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn van hoa. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 17 tháng 3, 2015

Những gam màu giữa Sài Gòn

(Sài Gòn Tiếp Thị - 16/3/2015) Trong lời ngỏ, tác giả Phạm Công Luận đã chia sẻ rằng: “Chẳng ai thực sự biết hết mọi điều về thành phố mình đang sống cho dù ở đó cả đời. Điều đó thật dễ hiểu”. Đặc biệt, với Sài Gòn có tuổi đời tuy chỉ mới hơn 300 năm và với một kẻ sinh sau đẻ muộn ở những năm cuối thể kỷ 20 thì Sài Gòn là một điều gì đó nửa gần nửa xa.

Gần là vì chỉ cần thức giấc bình minh, ngũ quan đều cảm nhận được nhịp sống, hơi thở của Sài Gòn và vẫn còn đó những con đường xưa cũ, những chợ, những gánh hàng rong, những địa danh gắn liền tên tuổi, lịch sử. Xa là khi chạm đến những trang sách, những câu chuyện kể lại từ các nhân chứng sống mà tác giả Phạm Công Luận đã gom góp thành quyển Sài Gòn chuyện đời của phố II (tác giả Phạm Công Luận, Nhà xuất bản Văn hóa-Văn nghệ TPHCM phát hành tháng 2-2015) bỗng thấy chưa bao giờ mình biết hết, hiểu hết về nơi sinh ra và lớn lên này.

Màu tím

Đó là sắc màu tím than biểu thị cho sự hoài niệm về những điều đã qua trong bốn thập niên (1950-1980). Một Sài Gòn được kể lại từ những ký ức của thế hệ trước. Một Sài Gòn đã nuôi dưỡng và thắp sáng những tài năng đến từ mọi vùng đất nước tựu về đây, cũng như những người con cháu ngay tại mảnh đất này từ những ngày đầu khẩn hoang; đồng thời là nơi tiễn chân người đi với cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng như câu chuyện nữ kịch sĩ Kiều Hạnh, nhạc sĩ Lê Mộng Bảo, Trịnh Công Sơn, Nguyễn Trung Cang, kiến trúc sư Huỳnh Kim Mãng, nghệ sĩ Năm Châu…

Màu xanh lá

Trong câu chuyện Về Bà Chiểu, rảo hàng bàng, thời gian được lùi lại vào những năm đầu thế kỷ 20 khi Sài Gòn chỉ là mảnh đất nhà cửa còn thưa thớt, vẫn những ruộng đồng xanh mướt với những cây bàng, cây sanh… xanh rợp đường đi hay như rạch Nhiêu Lộc mặt nước xanh trong đến mức “có thể nhìn thấy đồng xu chìm xuống chỗ nước cạn” trong Nhiêu Lộc, dòng rạch dòng đời”.

Màu xám trắng

Màu của ánh xà cừ được cẩn trên tủ thờ, tràng kỷ, sập gụ, tủ chè, cặp liễn đối, cái khay… mà đối với người Sài Gòn ngày trước, họ xem như gia bảo và chỉ xuất hiện trong những gia đình giàu có, trung lưu. Ngày nay, chúng ta vẫn còn thi thoảng thấy những đồ cẩn xà cừ này nhưng cũng không còn quý trọng như trước khi xu hướng hiện đại đã khác đi. Những bức hình chia sẻ lại trong câu chuyện Đồ Cẩn Xà Cừ như một sự nhắc lại về những món đồ đã từng là biểu tượng của sự sung túc và nếp gia phong trong các gia đình người Sài Gòn ngày trước.

Màu xanh dương

Màu xanh dương không thể hiện rõ ràng, cụ thể trong Sài Gòn chuyện đời của phố nhưng người đọc có thể cảm nhận được màu xanh qua niềm tin và hy vọng mà những câu chuyện trong quyển sách mang lại. Những câu chuyện đã nhắc lại rằng, chúng ta đã từng có những thành tựu do chính chúng ta tạo nên, chúng ta đã từng xây dựng thành công siêu thị đầu tiên cho người Việt vào năm 1967, chúng ta có Nhà xuất bản Tinh Hoa Miền Nam là nhà xuất bản nhạc đầu tiên của Việt Nam có tên trong danh mục các nhà xuất bản quốc tế “World Wide Trade Category”, một đồ án quy mô vẫn còn dở dang của chợ Bến Thành… Điều đó có nghĩa, chúng ta đã từng làm được thì tất yếu chúng ta lại sẽ tiếp tục làm được.

Sài Gòn vẫn đang sản sinh những người tài, lớp trẻ tài năng kế thừa những đặc tính, tinh hoa và giá trị của đời trước và sau đó lại sẽ tiếp nối xây dựng những thành tựu mới. Một điều chắc chắn là Sài Gòn sẽ luôn tiếp tục đổi mới và phát triển cùng với xu thế chung của các nước trong khu vực và thế giới. Bức tranh màu sắc qua những câu chuyện từ Sài Gòn chuyện đời của phố II không chỉ là sự hoài niệm của những con người ngày hôm qua mà còn là sự kể lại cho những người con ngày hôm nay. Đọc để nhìn thấy và chúng ta biết rằng, đã có một Sài Gòn như thế, hãy luôn tin yêu, gìn giữ bản thể tốt đẹp vốn có của Sài Gòn!
Thư Lê

Thứ Hai, 9 tháng 6, 2014

Mạn đàm từ trà và đặc tính văn hóa Đại Việt

Nhắc đến trà thì chúng ta nghĩ ngay đến Trung Quốc và nghệ thuật hơn thì có trà đạo Nhật Bản. Có một điều hiển nhiên là dường như mọi người cho rằng Trung Quốc là cái nôi của trà, là nơi khởi nguồn và truyền bá trà ra thế giới; nhưng theo ông Vũ Thế Ngọc, tác giả Trà Kinh (NXB Từ điển Bách Khoa, Thái Hà Books, 2014), cho rằng không có tài liệu viết nào nói cây trà đã xuất hiện ở thời cổ Trung Quốc, không có cây trà trạng thái thiên nhiên trên đất Trung Quốc và sử Trung Quốc cho thấy trà, hay tục uống trà là từ miền Nam đưa lên miền Bắc, nghĩa là trà phải có xuất phát điểm từ phía Nam sông Dương Tử hoặc vùng biên giới Tây Nam.

Và, chúng ta thường nghe đến Trung Quốc với thập đại danh trà như Trà Long Tỉnh, Trà Thiết Quan Âm, Trà Mao Phong, Trà Qua Phiến, Trà Ngân Châm v.v… như một sự khẳng định chắc chắn hơn về xuất xứ trà là từ Trung Quốc nhưng chúng ta lại ít nghe nói đến vùng đất nào ở Trung Quốc trồng trà cả. Bởi có trồng trà thì mới có trà và phải có sự du nhập cộng hưởng với đạo giáo thì trà mới được “phát danh quang đại” trên thế giới, nhưng đáng kể nhất xuất phát điểm chính là từ thời nhà Đường (618 – 907), không chỉ trà mà Phật giáo được truyền bá rộng rãi. Do vậy, chỉ có thể nói từ Trung Quốc mà trà đã trở nên phổ biến trên thế giới thay vì Trung Quốc là cội nguồn của trà. Tương tự vậy, Phật Giáo từng là Quốc giáo của nước Đại Việt và chúng ta vẫn luôn nghĩ rằng từ Trung Quốc mà Phật giáo du nhập và truyền bá ở nước ta nhưng thật sự dân tộc ta đã biết về Phật giáo từ trước khi tôn giáo này trở nên lan tỏa mạnh mẽ.

Nhân câu truyện về trà, tôi lại muốn viết thêm về đặc tính người Việt mình, dù trải qua hàng ngàn năm đô hộ, chịu nhiều ảnh hưởng văn hóa, truyền thống, lối sống của các nước cai trị thì đặc tính an hòa của dân tộc Việt Nam vẫn không thay đổi, “không bao giờ chấp nhận một quan điểm bảo thủ, giáo điều và độc tôn” (*). Trong khi người Trung Quốc không ngừng ca ngợi về lịch sử hùng tráng và siêu việt đến thế giới qua phim ảnh, nghệ thuật, những truyền tụng về thành tích vượt bậc hơn người như Vạn Lý Trường Thành, cuộc xâm lăng không khoan nhượng của Thành Cát Tư Hãn từ Á sang Âu, sự ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, Khổng Tử đến các nước lân cận hay cụm từ “Chinese tea” (trà Tàu, trà Trung Hoa) trở thành danh từ chung khi nói về trà thì người Việt ta lại ung dung tự tại với những nhàn nhã đời thường, thể hiện một lối sống cao thượng đạo vị. Dẫn chứng như quân Mông Cổ có hung hãn, bạo tàn và bách chiến bách thắng đến đâu nhưng sự thật lịch sử đã bị vị đại tướng quân Trần Quang Khải của nước Đại Việt đánh tan tành. Chúng ta không quá đề cao chiến thắng đó vì sau cùng “việc nhân nghĩa cốt để yên dân”.

Cũng bởi đặc tính an hòa mà hình thành nên văn hóa Đại Việt – một sự kết tụ của Phật – Lão – Khổng và Bách Gia chư tử từ đó mà những người con dân tộc Việt sống rất đạo và chết rất Phật. Mặc dù chịu ảnh hưởng của đạo giáo từ Trung Hoa nhưng chúng ta cũng nhìn nhận rằng người Việt ta không bị trói buộc vào những điều răn dạy của đạo giáo một cách cực đoan, mà chỉ học hỏi từ những điều hay lẽ phải và áp dụng vào cuộc sống.

Từ câu chuyện về trà lan man đến đặc tính người Đại Việt và rồi xin phép được quay về trà, tôi mạn phép kết bài rằng nếu việc thưởng trà của người Trung Hoa, Nhật Bản gắn liền với đạo thì với người Việt, việc thưởng trà cũng như thú vui đời thường “không giáo điều” mà thôi:

“Thử lai yêu khách nghiêu trà uyển
Vũ quá hô đồng lý dược lan”

(Mùa hè lại pha trà mời khách uống
Cơn mưa xong gọi trẻ sửa chậu lan)

– Thượng tướng quân Trần Quang Khải (*)

Hay như:

“Hà thời tiểu ẩn lâm tuyền hạ
Nhất tháp tùng phong trà nhất bôi”

(Sao bằng ở ẩn bên rừng suối
Một giường bên cửa gió thông với trà)

– Huyền Quang Tôn Giả (*)

Thủ thư Cú Mèo
Thư viện iBookStop

(*) trích từ Trà Kinh

Các bạn có thể mượn đọc Trà Kinh từ thư viện, vui lòng liên hệ 0903.61.31.67 hoặc email ask@ibookstop.vn để biết thêm chi tiết.

Bài viết được tóm lược và đăng trên Sài Gòn Tiếp Thị số 39, ra ngày 04/6/2014
Bài viết này chia sẻ lại từ website Thư viện iBookStop (www.iBookStop.vn).

Thứ Sáu, 6 tháng 6, 2014

Số 666 có ý nghĩa gì?

Hôm nay tình cờ là thứ 6 ngày 6 tháng 6 nên Cú Mèo lan man ngoài lề phạm vi sách và đi tìm hiểu về con số này. Có lẽ phần lớn mọi người đã biết ý nghĩa của 666 là gì rồi, nó là con số của Quỷ Satan hay Dấu của con thú dữ. Kết quả trên Google đã chỉ ra hàng triệu kết quả từ bài viết, tin tức, hình ảnh đến cả video xoay quanh con số 666. Cuối cùng, chọn trang Nhân chứng Giê-hô-va làm tài liệu chia sẻ.

Tại sao là 666?

Theo trang này, câu trả lời nằm trong Kinh Thánh. 666 là số hay tên của con thú dữ có bảy đầu và mười sừng từ dưới biển lên (Khải huyền 13:1, 17, 18). Con thú dữ này tượng trưng cho hệ thống chính trị toàn cầu cai trị trên “mọi chi phái, mọi dân, mọi thứ tiếng cùng mọi nước” (Khải huyền 13:7). Tên 666 cho thấy trong mắt Đức Giê-hô-va, hệ thống chính trị này thất bại thảm hại.



Và một lần nữa là tại sao?

Không chỉ là một danh hiệu. Các tên do Đức Chúa Trời đặt đều có ý nghĩa. Ví dụ, Đức Chúa Trời đặt cho Áp-ram (có nghĩa “cha cao-quý”) tên là Áp-ra-ham (có nghĩa “cha của nhiều dân-tộc”) khi ngài hứa cho ông làm “tổ-phụ của nhiều dân-tộc” (Sáng-thế Ký 17:5, chú thích). Tương tự, tên Đức Chúa Trời đặt cho con thú dữ là 666 tượng trưng cho các đặc tính nổi bật của nó.

Số sáu ám chỉ sự không hoàn hảo. Các số trong Kinh Thánh thường được dùng theo nghĩa tượng trưng. Số bảy thường tượng trưng cho sự trọn vẹn và hoàn hảo. Số sáu kém số bảy một số nên có thể ám chỉ những gì khiếm khuyết hoặc bất toàn trong mắt Đức Chúa Trời, và có thể liên quan đến kẻ thù của ngài.—1 Sử-ký 20:6; Đa-ni-ên 3:1.

Lặp lại ba lần để nhấn mạnh. Đôi khi Kinh Thánh lặp lại ba lần một vấn đề để nhấn mạnh (Khải huyền 4:8; 8:13). Vì vậy, tên 666 đặc biệt nhấn mạnh việc Đức Chúa Trời xem hệ thống chính trị của loài người là thất bại thảm hại. Họ không có khả năng đem lại hòa bình và an ninh vĩnh cửu, điều mà duy nhất Nước Đức Chúa Trời thực hiện được.

Dấu của con thú dữ

Kinh Thánh nói rằng người ta nhận “dấu của con thú dữ” vì họ “thán phục mà đi theo”, đến mức thờ phượng nó (Khải huyền 13:3, 4; 16:2). Họ làm điều này bằng cách tôn thờ quốc gia, các biểu tượng quốc gia hoặc sức mạnh quân sự. Bách khoa Từ điển Tôn giáo (The Encyclopedia of Religion) cho biết: “Chủ nghĩa ái quốc đã trở thành một hình thức tôn giáo chủ đạo trong thế giới hiện đại”.

Dấu của con thú dữ được đóng trên tay phải hoặc trên trán một người như thế nào? (Khải huyền 13:16). Liên quan đến những mạng lệnh ban cho dân Y-sơ-ra-ên, Đức Chúa Trời phán: ‘Hãy đeo nó như một dấu nơi tay, như một ấn-chí giữa hai con mắt’ (Phục-truyền Luật-lệ Ký 11:18). Điều này không có nghĩa người Y-sơ-ra-ên mang dấu trên tay và trên trán theo nghĩa đen, nhưng có nghĩa họ để Lời Đức Chúa Trời hướng dẫn trong mọi hành động và suy nghĩ. Tương tự, dấu của con thú dữ không phải được hiểu theo nghĩa đen, chẳng hạn một dấu xăm số 666, nhưng theo nghĩa bóng, dấu này nhận diện những ai để hệ thống chính trị chi phối đời sống. Những người có dấu của con thú dữ tự đặt mình vào vị thế đối địch với Đức Chúa Trời.—Khải huyền 14:9, 10; 19:19-21.

Thì ra là vậy và giờ thì Cú Mèo đã hiểu. Bạn nào có thêm tài liệu hay thông tin gì thì chia sẻ nhé!

Cú Mèo
iBookStop.vn

Thứ Ba, 20 tháng 5, 2014

Bên Lề Sách Cũ - Vương Hồng Sển

Ở mặt sau của quyển Bên Lề Sách Cũ (NXB Tổng Hợp, 2013, giá bìa 125.000 đồng), cụ Vương Hồng Sển đã viết như vầy:

“Có câu ví “Hãy cho bền chí câu cua, Dầu ai câu chạch câu rùa mặc ai!”. Và nghề “câu cua” của tôi là thu mót từ tập sách, cuốn sách bày bán bên lề, và “câu cua” cũng là lối viết bên lề tờ sách.

… Đọc sách cho nhiều nhưng đọc rồi quên hết thì bổ ích vào đâu và bổ ích cho ai? Sách dạy khôn, đọc lắm cũng nhàm. Biết mà không trao lại người khác thì cái hiểu biết kia chẳng hóa ra vô dụng? Vậy xin ghi thêm mấy hàng nầy. Là của riêng thâu lượm bấy lâu nay, cũng thuộc loại bên lề sách cũ.”

Cụ đã chọn cách viết như thế để giới thiệu một cách gọn gàng, thẳng thắn về quyển Bên lề sách cũ của cụ, vốn có thể xem là quyển sách tổng hợp những tài liệu xưa cũ về một đất Nam kỳ Lục tỉnh và những câu chuyện xoay quanh miền sông nước này.

Tác phẩm có tất cả 6 chương trong đó chỉ riêng chương 1 đã chiếm hết 1/3 quyển sách mà cụ dành riêng gọi là Nguyên văn trích lục và hơn ¼ quyển sách là phần cụ tổng luận dựa trên những tài liệu cụ thu thập được. Cái hay của Bên lề sách cũ là tính lịch sử của nó mà bạn đọc nào đang có những công trình nghiên cứu về sử học, văn hóa có thể tham khảo vì trong đó là những ghi chép có được từ những tài liệu xưa như “Petit cours de géographie de la Basse – Cochinchine” (Trương Vĩnh Ký), “Excursions et Reconnaissances” (tập san Pháp – 1880), “Tiểu địa dư” (Trương Vĩnh Ký), “Gia Định thành thông chí” (dịch giả: Trịnh Hoài Đức), “Đại Nam nhất thống chí (Lục tỉnh Nam Việt)” (dịch giả: Nguyễn Tạo)… 

Ngoài ra, cụ Vương Hồng Sển đã rất chi tiết ghi chú lại trên những tài liệu cụ có được với những tham khảo chéo mà độc giả qua đây thấy được sự dàn trải mênh mông của kiến thức. Chỉ mỗi riêng “lá buôn” và “lá buông”, mà cụ nhất mực phải trích lục tìm hiểu ngọn căn sau cùng thì đây là do cách viết hay là tên của hai loại lá cây khác nhau. Khi có được lời đáp, cụ cũng ghi rõ không bỏ xót tất cả những gì liên quan đến “lá buôn” và “lá buông”.

Thông qua đây, các bạn đã đủ hình dung về giá trị nội dung quyển sách chưa? Riêng tôi, có khi phải ghi từng chút một vào tờ giấy để khi đi đâu, đến đâu, thấy tên gọi hay câu chuyện nghe quen quen, lật ra xem lại thì may ra mới ngấm được những gì cụ viết trong đây. Dù sao thì đây là quyển sách chỉ phù hợp với độc giả là nghiên cứu sinh hay thực sự bạn đang tìm hiểu về Nam kỳ Lục tỉnh cũng như những câu chuyện lịch sử xung quanh. 

À, bạn có nghĩ rằng Gia Định là tên gọi trước đây của Sài Gòn? Thật ra thì không phải vậy. Sài Gòn là tên gọi trước đây của Tân Bình phủ, và Tân Bình phủ là một trong bốn phủ của Gia Định tỉnh. Bốn phủ đó là Tân Bình phủ, Hòa Thạnh phủ, Tân An phủ, Tây Ninh phủ. Theo đó, Gia Định là một trong Lục tỉnh Nam kỳ trước đây. Bạn có thể tìm đọc để biết thêm qua Bên Lề Sách Cũ - Vương Hồng Sển.

Cú Mèo
iBookStop.vn
(Vui lòng trích dẫn nguồn khi chia sẻ. Xin cám ơn!)

Thứ Ba, 13 tháng 5, 2014

Văn hóa Nam Bộ qua cái nhìn của Sơn Nam - Võ Văn Thành

Trước khi đọc tác phẩm, tôi luôn tin rằng người miền Nam là những con người mộc mạc, đơn giản và chất phác như bản chất cố hữu của những con người ở miền sông nước. Và một lần nữa, niềm tin ấy lại được củng cố hơn hết sau khi đọc tác phẩm “Văn hóa Nam Bộ qua cái nhìn của SơnNam” (Võ Văn Thành, NXB Trẻ, 2013, giá bìa 60.000 đồng).

Tác phẩm là công trình nghiên cứu của Thạc sĩ Võ Văn Thành, tổng hợp từ 60 tác phẩm, tài liệu của nhà văn Sơn Nam cũng như các bài viết, tác phẩm, tư liệu của các tác giả khác nhau viết về nhà văn Sơn Nam, chia làm ba phần:
  • Phần 1: Viết về nhà văn Sơn Nam, thân thế và cuộc đời của ông
  • Phần 2: Văn hóa vật thể qua cái nhìn của Sơn Nam
  • Phần 3: Văn hóa phi vật thể qua cái nhìn của Sơn Nam
Vốn sinh ra và lớn lên từ miền sông nước, tất cả như ăn sâu bám rễ trong ông – nhà văn Sơn Nam. Cảm tưởng như chẳng điều gì có thể lọt khỏi tầm mắt của ông, ngay cả hơi thở. Nó như là mạch đập, toàn bộ cuộc sống của ông và nếu tách rời ông khỏi miền Nam thì chắc chắn rằng chúng ta sẽ chẳng có nhà văn Sơn Nam với những tác phẩm phôi thai từ miền sông nước này.

Điều mà tác giả Võ Văn Thành nhận thấy và nhấn mạnh trong tác phẩm của ông là văn hóa miền Nam mang ảnh hưởng thời kỳ khẩn hoang của 400 năm trước khi bộ phận đông đảo người Việt di cư vào đây sinh sống. Cũng bởi sự ảnh hưởng của điều này mà người miền Nam luôn coi trọng cuộc sống mà họ có được ví dụ như bất kỳ đâu nơi họ đến đều là vùng đất linh thiêng và luôn coi trọng những gì thiên nhiên ban tặng cũng như học cách thích nghi với cuộc sống mới thay vì cải tạo và đổi mới. Chính điều đó đã làm nên những con người miền Nam mang một nét rất riêng không lẫn vào đâu trên mọi phương diện cuộc sống như:

** Trong ẩm thực, không cầu kỳ nhưng cũng không quá xuề xòa. Nếu như bữa cơm chuẩn của người Việt là cơm – rau – cá – thịt thì người miền Nam lại đổi thành cơm – canh – rau – tôm – cá vốn là những gì thiên nhiên ban tặng. Nhất là rau như dẫn chứng điều Sơn Nam đã viết “hễ gặp loại lá, đọt non nào ăn không chết là cứ ăn”. Đến cả mười hai con giáp, nếu con rồng là sinh vật có thật thì hẳn họ cũng ăn luôn. Chưa kể, họ không câu nệ trong việc ăn uống nên chỉ cần mắm hay cá khô nướng với cơm trắng hay rau rừng tiện tay hái khi thả xuồng trôi trên kênh rạch thì cũng gọi là xong bữa.

** Trong cách ứng xử, người miền Nam có lối ứng xử nước đôi nghĩa là họ săn cọp, bắt sấu nhưng không truy cùng đuổi tận mà chỉ dọa như nhắc nhở ranh giới giữa người và vật, một mặt giết cọp nhưng mặt khác lại lập miếu thờ ông cọp, một mặt họ giết sấu nhưng họ không giết hết mà giết một thả một vì bản tính không sát sinh, sống vì âm đức; họ tin rằng con còn lại sẽ quy phục, hướng thiện không phá làng xóm nữa như nhà Phật đã dạy. Tuy nhiên, trong ứng xử với người, có một điều rất chắc nịt rằng họ không thích sự giả dối và nếu phát hiện thì họ chẳng còn qua lại nữa; họ coi trọng việc sống có âm đức nghĩa là sống hướng thiện, không làm điều ác, hại người hại vật.

** Trong văn hóa cư trú, hình ảnh rất đặc trưng đó là những ngôi nhà trên bè bởi do cấu tạo của vùng đất này là sự chằn chịt rạch ngòi và sông nước nhưng nếu sau vài năm sinh sống, làm ăn khá giả thì họ sẵn sàng bỏ tiền xây nhà định cư lâu dài. Mặt khác, họ cũng là những người có phong cách sống thích ứng nhanh nên dễ dàng hòa hợp, chan hòa với hàng xóm là những người Khmer.

** Một điểm đặc trưng nữa là cũng bởi chính lối sống thời kỳ khẩn hoang đã di truyền tính ưa thích phiêu lưu của người miền Nam, họ dễ dàng di chuyển đây đó để mưu sinh và vì thế trong bộ ba dân tộc sinh sống lâu đời ở đây, dường như ít có sự xung đột lợi ích kinh tế với nhau. Nếu như người Khmer ưa thích sự ổn định, ít thay đổi, sản xuất tại chỗ thì người Nam ưa thích đi lại như một lái buôn trong khi chợ là nơi giao thương của hầu hết người Hoa.

Dù văn hóa Nam Bộ chỉ mới hình thành từ những năm thế kỷ 16 nhưng qua nhà văn Sơn Nam, chúng ta đã thấy được có một miền Nam mộc mạc và chất phát không lẫn vào đâu và qua tác phẩm “Văn hóa Nam Bộ qua cái nhìn của Sơn Nam”, chúng ta lại một lần nữa có một cái nhìn tổng quan, bao quát hơn về miền sông nước này. Đến cả tâm hồn thi sĩ cũng chất chứa sự mộc mạc, giản đơn ấy. Mượn lời bài hát Điệu buồn Phương Nam để kết bài.

Về phương Nam lắng nghe cung đàn,
Thổn thức vọng dưới trăng mơ màng,
Rồi theo sông Cửu Long nhớ nhung dâng tràn,
Chợt thương con sáo bay xa bầy,
Sương khói buồn để lại lòng ai….”

Cú Mèo
iBookStop.vn
(Vui lòng trích dẫn nguồn khi chia sẻ. Xin cám ơn!)